
BỆNH ĐẬU MÙA
Đậu mùa là căn bệnh truyền nhiễm của riêng loài người, gây bởi hai dạng virus Variola major và Variola minor. Đậu mùa có tên gọi tiếng Latinh là Variola hay Variola vera, trong đó từ varius có nguồn gốc nghĩa là “có nốt”, hoặc varus, nghĩa là “mụn nhọt”. Tiếng Anh danh từ “smallpox”, xuất hiện vào thế kỷ 15 để phân biệt với biến dạng “great pox” (bệnh giang mai).
Triệu chứng và hậu quả
Đậu mùa gây bệnh trong các mạch máu nhỏ ở da, miệng và cổ họng. Ở vùng da, bệnh gây ra những vết ban nổi sần đỏ đặc trưng, sau đó da bị phồng giộp những vết sần chứa nước. Virus V major độc hại hơn, gây tử vong trong số 30-35% bệnh nhân. V minor gây dạng bệnh nhẹ hơn, giết khoảng 1% bệnh nhân.[1] Biến chứng lâu dài của việc nhiễm V major là các sẹo đặc trưng, thường là ở mặt, ở 65-85% số nạn nhân. Nạn nhân cũng có thể bị mù vì giác mạc bị sẹo. Phái nam còn có thể bị hiếm muộn. Dị hình ở các chi do chứng viêm khớp và viêm khớp xương mãn tính là biến chứng ít gặp hơn, xuất hiện ở khoảng 2-5% các trường hợp nhiễm bệnh.
Lịch sử
Đậu mùa xuất hiện vào khoảng 10.000 năm trước Công nguyên. Chứng tích xưa nhất của bệnh đậu mùa là những vết mụn mủ trên xác ướp của Pharaon Ramses V thời Ai Cập cổ đại. Căn bệnh này đã giết chết khoảng 400.000 người dân châu Âu mỗi năm trong những năm cuối thế kỷ 18, trong đó có 5 quốc vương đương tại vị. Bện này cũng và là nguyên nhân của 1/3 trường hợp bị mù.[2][3] Khoảng 20-60% số những người nhiễm bệnh, trong đó có khoảng hơn 80% là trẻ em, bị tử vong. Hậu quả là 300-500 triệu người đã chết vì bệnh đậu mùa vào thế kỷ 20. Tổ chức Y tế Thế giới (viết tắt tiếng Anh: WHO) ước lượng riêng năm 1967 có khoảng 15 triệu người nhiễm bệnh và 2 triệu người tử vong.[4]Sau chiến dịch chủng đậu vác-xin kéo dài từ thế kỷ 19 đến thế kỷ 20, WHO chứng nhận đã tiêu diệt được bệnh đậu mùa vào năm 1979.[4] Đậu mùa là một trong hai bệnh truyền nhiễm đã được diệt dứt điểm; căn bệnh kia là bệnh dịch tả trâu bò (rinderpest) được công nhận đã bị tiêu diệt vào năm 2011.[5] [6] [7]
Phân loại
Có hai loại đậu mùa lâm sang. Loại Variola major là dạng trầm trọng và thường gặp nhất, gây ra sự phát ban rộng hơn và sốt cao hơn. Loại Variola minor ít gặp và trầm trọng hơn, với tỷ lệ tử vong vào khoảng 1% hoặc ít hơn. Giai đoạn nhiễm virus variola cận lâm sang đã được chú ý đến, nhưng không thường gặp. Thêm vào đó, còn có một dạng gọi lại variola sine eruptione (đậu mùa gây phát ban) thường được bắt gặp ở những người được tiêm chủng. Dạng này gây ra sốt sau thời kỳ ủ bệnh và chỉ có thể được xác nhận bằng nghiên cứu kháng thể, hay ít gặp hơn, bằng cách cách ly virus.
Dấu hiệu và triệu chứng
Thời kỳ ủ bệnh từ lúc nhiễm bệnh đến lúc triệu chứng rõ ràng đầu tiên xuất hiện là khoảng 12 ngày. Một khi bị hít vào, virus Variola major xâm chiếm vùng họng miệng hoặc vùng niêm mạc hô hấp, di chuyển đến hạch bạch huyết và bắt đầu sinh sôi. Trong giai đoạn tăng trưởng ban đầu, virus có thể di chuyển từ tế bào đến tế bào, nhưng vào khoảng ngày thứ 12, các tế bào nhiễm virus giảm dần, virus được tìm thấy trong máu với số lượng lớn. Tiếp đó là sự sinh sôi virus diễn ra ở lá lách, tủy xương và hạch bạch huyết. Các triệu chứng ban đầu tương tự với các bệnh nhiễm virus khác, chẳng hạn như cúm và cảm thong thường, sốt ít nhất 38.5°C, đau nhức cơ, cảm giác khó chịu, đau đầu và tình trạng mệt mỏi. Khi các ống tiêu hóa bị lien lụy, chứng buồn nôn và ói mửa, cùng với chứng đau lưng xuất hiện. Các triệu chứng báo trước, hay giai đoạn tiền bệnh, thường kéo dài 2-4 ngày. Từ ngày 12-15, những thương tổn thấy được đầu tiên xuất hiện – đó là các vết chấm nhỏ màu đỏ gọi là enanthem – trên màng nhầy của miệng, lưỡi, vòm miệng và cổ họng. Nhiệt độ cơ thể vẫn bất bình thường. Các thương tổn này nhanh chóng lan ra và bị vỡ, giải phóng lượng lớn virus vào tuyến nước bọt.Virus đậu mùa có khuynh hướng tấn công tế bào da, gây nên những mụn nhọt điển hình (gọi là phát ban) của chứng bệnh này. Các nốt nhỏ phát triển trên da từ 24-48 tiếng sau khi các thương tổn ở các màng nhầy xuất hiện. Thông thường, các vết ban xuất hiện đầu tiên ở tran, sau đó nhanh chóng lan ra cả khuôn mặt, phần lớn các bộ phận gần đầu, than người và cuối cùng là ở các bộ phận xa hơn. Quá trình xảy ra không quá 24 đến 36 tiếng, sau thời gian này không còn thương tổn mới nào xuất hiện. Lúc này, sự nhiễm virus variola có thể diễn ra theo nhiều hướng, dẫn đến bốn loại bệnh đậu mùa như trong phân loại Rao: thông thường, giảm nhẹ, ác tính và gây xuất huyết. Trong lịch sử, bệnh đầu mùa gây ra tỷ lệ tử vong vào khoảng 30%, trong đó hai dạng ác tính và gây xuất huyết thường gây chết người.
Đậu mùa thông thường
90% hoặc hơn số các ca bệnh đậu mùa gặp ở những người chưa tiêm chủng thuộc loại đậu mùa thông thường. Ở dạng này, vào ngày thứ hai phát ban, vết ban sẽ biến thành nốt sần. Vào ngày thứ ba hay thứ tư, các nốt sần sẽ chứa bên trong một chất dịch màu trắng đục và trở thành mụn nước. Chất dịch này trở nên đặc và có màu đục trong vòng 24-48 giờ.Khoảng ngày thứ sáu hay thứ bảy, mọi vết thương ở da sẽ biến thành nốt sần. Trong vòng 7 đến 10 ngày, các nốt sần sẽ phát triển và đạt kích thước tối đa. Các nốt sần nổi lên rõ, thường có hình tròn, chạm vào thấy căng và cứng. Các nốt sần ăn sâu vào lớp biểu bì, cho cảm giác đó là các hạt nhỏ nằm trong da. Chất dịch dần dần rỉ qua nốt sần, và vào tuần thứ hai, các nốt sần xẹp xuống và bắt đầu khô đi, tạo thành lớp vảy cứng. Vào ngày thứ mười sáu tới ngày thứ hai mưoi, lớp vảy sẽ bao phủ toàn bộ các vết thương đã bắt đầu bong ra, gây nên sẹo.Đậu mùa thông thường hay tạo ra các vết ban riêng biệt, mà các nốt sần sau đó tách ra khỏi lớp da. Sự phân bổ các vết ban dày đặt nhất ở trên mặt, xuất hiện nhiều ở các chi hơn là trên than mình; và ở các chi, lại dày hơn ở các điểm mút. Lòng bàn tay và long bàn chân thường nổi ban nhiều. Đôi khi, các chỗ phồng da kết lại với nhau, tạo nên vết ban giao nhau. Vết ban giao nhau làm bong lớp da ra khỏi lớp thịt nằm bên dưới. Bệnh nhân gặp phải các vết ban giao nhau thường vẫn trong tình trạng bệnh thậm chí sau khi lớp vảy đã hình thành. Tỷ lệ tử vong do gặp phải vết ban là 62%.
Đậu mùa giảm nhẹVới đặc điểm gây phát ban và phát triển mau lẹ, đậu mùa giảm nhẹ hầu hết diễn ra ở những người đã tiêm chủng vắc-xin. Ở dạng này, các triệu chứng bệnh vẫn xảy ra nhưng ở mức độ nhẹ hơn so với đậu mùa thông thường. Bệnh nhân thường không sốt trong quá trình vết ban phát triển. Các tổn thương ở da ít hơn và tiến triển nhanh hơn, ở bề mặt nhiều hơn và có thể không thể hiện rõ đặc tính của bệnh đậu mùa điển hình. Đậu mùa giảm nhẹ rất hiếm khi gây chết người. Dạng đậu mùa này hay bị nhầm lẫn với bệnh thủy đậu.
Đậu mùa ác tínhỞ dạng này, các thương tổn vẫn tiếp tục tồn tại trên da vào thời điểm các mụn nước hình thành. Lý do một số người mắc dạng bệnh này vẫn chưa được biết đến. Trong lịch sử, đậu mùa ác tính chiếm khoảng 5-10% các ca mắc bệnh, trong đó phần lớn là trẻ em – 72%. Đậu mùa ác tính thường đi kèm với giai đoạn tiền triệu kéo dài 3-4 ngày, sốt kéo dài và các triệu chứng nhiễm độc huyết trầm trọng. Vết ban phát triển ở lưỡi và vòm miệng. Các thương tổn ở da phát triển chậm. Vào ngày thứ bảy hay thứ tám, các thương tổn này xẹp đi và trông giống bị hằn vào da. Không giống đậu mùa thông thường, mụn nước chứa rất ít dịch, chạm vào thấy mềm và mỏng, và có thể chứa máu. Đậu mùa ác tính gần như luôn luôn gây tử vong.
Đậu mùa xuất huyếtĐậu mùa xuất huyết là dạng bệnh nghiêm trọng đi kèm với hiện tượng xuất huyết nặng ở da, màng nhầy và ống dạ dày. Dạng bệnh này chiếm khoảng 2% số ca và hầu hết bắt gặp ở người lơn. Với đậu mùa xuất huyết, da không nổi vảy. Thay vào đó, người bệnh bị xuất huyết dưới da, da trông giống bị phỏng và nám đen. Vì vậy, dạng này còn được biết đến với tên bệnh mụn đen.Vào giai đoạn đầu hay giai đoạn phát bệnh, xuất huyết diễn ra vào ngày thứ hai hay thứ ba khi xuất huyết dưới màng kết làm long trắng mắt trở nên đỏ. Đậu mùa xuất huyết cũng gây ra phát ban đỏ, các đốm xuất huyết, xuất huyết ở lá lách, thận, màng thanh dịch, cơ và ít gặp hơn là ở lá tạng ngoài tâm mạc, gan, tinh hoàn, buồng trứng và bang quang. Người bệnh có thể tử vong bất ngờ từ ngày thứ năm đến ngày thứ bảy mắc bệnh, khi mà ở ngoài da, các thương tổn đáng ngại xuất hiện rất ít. Các biểu hiện về sau diễn ra ở bệnh nhân còn sống trong vòng 8-10 ngày. Bệnh nhân ở giai đoạn đầu có những biểu hiện:các nhân tố đông máu (như tiểu cầu, huyết tương và huyết thanh) suy giảm và lượng antithrombin tuần hoàn gia tăng. Bệnh nhân ở giai đoạn sau có lượng tiểu cầu bị giảm mạnh; tuy nhiên sự thiếu hụt các nhân tố đông máu ít trầm trọng hơn. Một số bệnh nhân ở giai đoạn sau cũng cho thấy có sự gia tăng về lượng antithrombin. Dạng này có thể bắt gặp ở mọi nơi, chiếm từ 3 đến 25% các ca tử vong, tùy thuộc vào độc tính của các vết sần. Đậu mùa xuất huyết có khả năng gây tử vong cao.
Nguyên nhân
Bệnh đậu mùa xuất phát từ việc nhiễm virus Variola, thuộc chi Orthopoxvirus, họ Poxviridae. Variola là một virus hình gạch, cỡ lớn vào khoảng 302-350 nanomét x 244-270 nm, có bộ gen DNA dạng hai sợi, và có một vòng thắt lại ở mỗi đầu. Hai dạng đậu mùa cơ bản là variola major và variola minor.Bốn loại virus thuộc chi Orthopoxvirus gây bệnh ở người là: Variola, vaccinia, cowpox (đậu mùa ở động vật) và monkeypox. Trong tự nhiên virus variola chỉ gây bệnh ở người, dù động vật linh trưởng và các loài động vật khác cũng bị nhiễm bệnh ở môi trường thí nghiệm. Vaccinia, cowpox và monkeypox có thể gây bệnh ở người lẫn động vật.Chu kỳ sống của các virus thuộc họ Poxviridae khá phức tạp vì có nhiều dạng gây truyền nhiễm, với cơ chế xâm nhập tế bào đa dạng. Virus họ này là duy nhất trong số các virus có DNA vì chúng không tái tạo trong nhân tế bào, mà là ở tế bào chất. Để tái tạo, các virus sản sinh ra nhiều loại protein đặc trưng mà các virus DNA khác không tạo ra được, trong đó protein quan trọng nhất là RNA polymer hóa dựa trên DNA của virus.
Sự truyền bệnhBệnh lan truyền qua việc hít phải các virus variola trong không khí, thường từ các dịch từ vùng họng, mũi, niêm mạc họng của người nhiễm bệnh. Bệnh được truyền từ người sang người chủ yếu qua việc tiếp xúc mặt đối mặt kéo dài với người nhiễm bệnh, thường trong khoảng cách 1,8m, nhưng cũng có thể bị truyền bệnh qua việc tiếp xúc trực tiếp với các dịch cơ thể bị nhiễm virus hoặc các đồ vật bị nhiễm bẩn như ra giường hay quần áo. Đậu mùa hiếm khi gây lây nhiễm qua không khí trong không gian kín như tòa nhà, xe buýt, xe lửa. Virus có thể lây truyền qua đường nhau thai, nhưng bệnh đậu mùa bẩm sinh có tỷ lệ tương đối thấp. Đậu mùa không được ghi nhận là có thể lây truyền trong thời kỳ tiền triệu và virus thường phát tán từ lúc xuất hiện các vết ban, hay đi kèm với các thương tổn ở miệng và họng. Virus có thể lây truyền qua trong giai đoạn phát bệnh, thường nhất là khoảng tuần đầu tiên xuất hiện vết ban, khi các thương tổn ở da còn nguyên vẹn. Bệnh bắt đầu ít lây nhiễm trong khoảng 7 đến 10 ngày từ lúc vảy xuất hiện, nhưng người bệnh vẫn có khả năng lây nhiễm cho đến khi miếng vảy cuối cùng rụng đi.Đậu mùa có tính lây nhiễm coa, nhưng thường với tốc độ chậm và ít rộng khắp hơn so với các bệnh truyền nhiễm do virus khác; có thể bởi vì bệnh lây nhiễm qua việc tiếp xúc gần và xảy ra sau khi vết ban đã xuất hiện. Tỷ lệ lây nhiễm cũng bị ảnh hưởng bởi thời gian ngắn trong giai đoạn lây nhiễm. Ở vùng ôn đới, số ca lây nhiễm đậu mùa đạt cao nhất vào mùa đông và mùa xuân. Ở khu vực nhiệt đới, bệnh xuất hiện khắp cả năm. Đậu mùa không được ghi nhận có thể lây truyền qua côn trùng hay động vật và không có trường hợp vật chủ mang mầm bệnh không thể hiện triệu chứng (asymptomatic carrier).
Chuẩn bệnh
Theo định nghĩa y học, đậu mùa là loại bệnh đi kèm với sốt cấp tính trên 38,3°C, cùng với các vết ban có đặc điểm cứng, mụn nước hoặc mụn mủ ăn sâu xuất hiện vào cùng thời kỳ phát triển mà không có nguyên nhân rõ ràng. Nếu có trường hợp bệnh được nhận thấy, bệnh sẽ được xác nhận thông qua các kiểm tra phòng thí nghiệm.Xét từ quan sát kính hiển vi, virurus đậu mùa sản sinh các thể vùi mang tế bào chất điển hình, trong đó quan trọng nhất là thể Guarnieri, và là vị trí để virus sinh sản. Thể Guarnieri trông giống đốm màu hồng, có thể dễ dàng nhận diện qua làm sinh thiết da cùng hermatoxylin và eosin. Thể này được tìm thấy ở tất cả các bệnh nhiễm virus đậu mùa nhưng sự vắng mặt thể Guarnieri không thể được xem là loại trừ bệnh đậu mùa. Chuẩn đoán nhiễm virus orthopoxvirus cũng có thể được thực hiện nhanh chóng bằng xét nghiệm qua kính hiển vi electron đối với dịch mủ hoặc vảy. Tất cả orthopoxvirus đều có hình viên gạch đặc trưng qua kính hiển vi electron. Xác định bệnh bằng thí nghiệm đối với virus variola bao gồm việc nuôi cấy virus trong màng chorioallantoic (một phần của phôi gà) và kiểm tra các mụn bọc thương tổn dưới những điều kiện nhiệt độ xác định.Bệnh thủy đậu (chickenpox) thường bị nhầm lẫn với bệnh đậu mùa vào thời kỳ tiền triệu sớm. Hai bệnh này có thể được phân biệt bằng nhiều phương pháp. Không giống bệnh đậu mùa, bệnh thủy đậu thường không ảnh hưởng lên lòng bàn tay và lòng bàn chân. Thêm vào đó, mụn mủ thủy đậu có nhiều kích cỡ khác nhau tùy thuộc vào thời gian phát ban, còn mụn mủ đậu mùa đều gần như cùng kích cỡ vì ảnh hưởng của virus phát triển đồng đều hơn. Có nhiều phương pháp thí nghiệm để phát hiện thủy đậu trong các trường hợp bệnh đậu mùa còn nghi vấn.
Đậu mùa trong lịch sử Việt Nam
Lịch sử Việt Nam có ghi lại một số những nhân vật chết vì bệnh đậu mùa. Trong đó có Hoàng tử Cảnh, người con cả của vua Nguyễn Thế Tổ (niên hiệu Gia Long). Hoàng tử Cảnh mất năm 22 tuổi, để lại một vợ và hai con. Vua Tự Đức cũng bị bệnh đậu mùa và bị vô sinh nên nhận một người con nuôi lên làm vua và chỉ tại vị được 3 ngày, đó là vua Dục ĐứcSử nhà Nguyễn cũng ghi hai nạn dịch lớn trước thời Pháp thuộc:”Năm Canh Thìn (1820) tháng 11 (âm lịch) bệnh dịch lan tràn, khởi đầu từ Hà Tiên đến Bắc Thành. Nhiều người chết. Nhà nước chẩn cấp cho dân tổng cộng 73 vạn quan tiền.””Năm Canh Tý (1840) tháng 9 (âm lịch) ở Sơn Tây từ mùa xuân đến mùa thu có hơn 4.900 người chết dịch.”[8]Vết sẹo rậm trên da mặt thường là chứng tích của bệnh đậu mùa, tiếng Việt có chữ riêng để gọi: “rỗ”.
Tham khảo thêm
BỆNH ĐẬU MÙA (SMALLPOX)
(Hay là Bệnh Rổ Hoa)
Bệnh này rất nguy hiểm và gây hậu quả tai hại cho bệnh nhân suốt cả đời, đó là gương mặt bị rổ sẹo hay bị tuyệt tự suốt đời (nam giới). Bài này được viết ra có kèm theo kinh nghiệm trị bệnh của gia đình chúng tôi, nghĩa là dùng phương cách của người xưa để cho người bệnh khi lành bệnh mà gương mặt không bị rổ hoa. Quý bạn có thể ghi lại cho người thân khi bị bệnh này. Bệnh trị được nhưng rổ hoa rất khó trị nếu rổ sâu.
Bệnh này có từ ngày xưa, trên 4 ngàm năm hay hơn. Người ta khai quật những ngôi mồ xưa tại Ai Cập, Kim tự Tháp hay ngôi mộ của vua Ramses V ngườita thấy xác ướp khô đét đen đũi của Phareon Ramses V co những vết sẹo ăn sâu vào gương mặt. Vua đã bị bệnh rổ chằng chịt gương mặt của vua. Còn tại Ấn Độ, người ta biết họ có thờ vị Nữ Thần Đậu Mùa tên là: “Sitala”, nữ thần này cưỡi ngựa trắng lại có hai sừng, tay vị thần cầm một cây chổi để quét bệnh ra khỏi người và một tay cầm bình nước lạnh, dùng để làm nguội mát người bệnh. Ngày lễ này thì dân Ấn họ ăn đồ nguội và cử quét rác để tỏ lòng biết ơn vị Thần mang danh hiệu là Sitala.
Từ Ai Cập nó lan tràn đến Trung Đông (mà bấy giờ gọi là Fertile Crescent: Vùng đất phì nhiêu hình Lưỡi Liềm), và từ đó lan đến Trung Hoa (vì vùng nay tiếp xúc với con buôn đi đi đến đến từ Trung Hoa). Năm 165 và 180 trước Tây lịch, bệnh này làm dịch tàn sát rất nhiều dân La Mã, có thể giết đến 4 – 7 triệu người (con số kinh sợ vào thời đó), vì Pháp toàn nước chỉ có vài triệu mà thôi, nghĩa là quét sạch một cư dân toàn nước). Bệnh này giết luôn cả Hoàng đế La mã là Marcus Aurelius. Lúc đó thế giới lầm bệnh này cho rằng nó từ Trái rạ mà ra, nhưng Bác sĩ gốc Ả rập, Al-Rhazi cho rằng bệnh Trái Rạ và bệnh đậu Mùa là hai bệnh khác nhau. Sau đó nó lan tràn cho đến thế kỷ 11 đến thế kỷ 14. Vua Anh quốc là Edward II sống sót, nhưng vua Miến Điện là Thadominbya thì chết ngắc.
TỪ đó cho đến năm 1620 thì cư dân tại Nam Mỹ trước khi Christopher Columbus đến thì dân khoảng 100 triệu sống tại Mexico, Nam Mỹ… Nhưng khi nhóm Columbus đến thì dân chúng tại những nơi nầy đếm chỉ còn gần 1.6 triệu (chưa đầy 2 triệu dân)… tất cả chết sạch vì bệnh Đậu Mùa cho nhóm thủy thủ lang bạc trôi sông lạc chợ mà Christopher Columbus mướn đi chung tàu đến chiếm Nam Mỹ và khám phá ra Tân thế Giới. Vua Aztec là Montezuma cũng bị bệnh đậu mùa này và không qua khỏi, thổ dân cho rằng bệnh này của dân da trắng gây nên cũng như ngày nay bệnh HIV / SIDA hay AIDS là do nhóm da trắng gây ra đầu tiên, và hiện nay tại Phi Châu nhóm da đen lãnh đủ còn nhóm da trắng có thuốc trị bệnh nên giảm bớt, để lại nhóm da đen trong vài chục năm nữa là quét sạch nhóm dân đen nầy.
Bệnh này nếu người nào nhiễm bệnh và lây nhẹ cho người chung quanh thì người chung quanh sẽ không bị bệnh. Như trường hợp bà Lady mary Wortley Montagu, vợ của đại sứ Anh tại Ottoman (nay một phần Thổ nhĩ kỳ), Bà biết được người Ả rập có cách trị bệnh này, bằng cách cho nhiễm bệnh. Cho nhiễm bệnh là người ta dùng vẫy bụi tróc ra từ người bệnh đậu mùa và cấy vào da mà họ làm trầy một chút. Vài tuần sau là người này sẽ bệnh nhưng sẽ khỏi từ từ vì chuẩn bị thuốc thang đầy đủ rồi, người ta hay người Ả Rập dùng bệnh đậu mùa của Bò thì tốt nhất vì Bò sẽ không gây chết nguời bằng người truyền cho người. Lady Montagu thấy lúc đó thành phố bị bệnh đậu mùa này và bà không vị lại, vì bà đã bị lúc còn nhỏ, gương mặt vẫn còn nhiều vết sẹo do bệnh này gây ra. Bà viết tho cùng cấy thức mà người Ả Rập gây bệnh cho người. Ngày nay ta gọi là: “Inoculation”, dịch là chủng đậu. Bức thư của bà gởi về London thì cũng vừa lúc thành phố này bị bệnh, có người đọc được trong báo chí ấn hành ra và họ tìm đến nông thôn nhờ chỗ nào có thầy thuốc thú y dã trữ miếng vẫy nến của loại bò hay cừu. Như vậy là một người “wise man” (thông thái) gốc Ả Rập đã phát minh ra vấn đề chủng đậu này vào thế kỷ thứ 10 hay 11 tại vùng Thổ nhĩ Kỳ rồi lan đến toàn xứ Ả Rập… Triều đình Anh là Nữ hoàng Anne đứa con đã chết vì bệnh này, cho nên bà Caroline (nữ hầu tước quận Wales) không muốn thấy con mình sẽ chết vì đậu mùa, nên cho mời Bác sĩ của Bà Lady Monatagu đến tìm cách trị bệnh. Nhưng Hoàng Gia rất lo sợ, bèn gọi 6 tử tù đến với điều kiện: “làm theo công thức trị bệnh của bác sĩ của bà Lady Montagu, nếu không chết thì… tự do”. Kết quả 6 tử tù dính bệnh, nhưng không chết và họ được tự do. Hoàng gia cũng chưa chắc ăn, nên cho gọi đến 4 đứa bé bằng tuổi Caroline trong Cô nhi Viện London, bác sĩ cho gây bệnh… và 4 đứa bé mồ côi nầy không chết vì bệnh, như thế công thức hay cách thức này hiệu quả. Hoàng gia đồng ý cho công chúa Caroline nhiễm bệnh. Và Hoàng gia đóng dấu ấn gọi là: “Royal Seal approve”. Tại Hoakỳ tướng lãnh quân đội lừng danh tên là: George Washington cũng bị bệnh đậu mùa nhưng thoát khỏi, và ông ra lệnh cho toàn thể quân đội của ông chủng ngừa theo phương pháp của lady Montagu. Vị tướng này sau thành Tổng thống Hoakỳ đầu tiên của U.S.A.
Tại Anh quốc, Bác sĩ vườn là Edward Jenner cho biết những mục đồng nào mà có bò hay cừu bị bệnh đậu mùa thì những em bé mục đồng này không bao giờ bị bệnh đậu mùa truyền từ người sang nữa và không có vết sẹo gì hết. Còn cách thức của Bác sĩ riêng của Lady Montagu thì nó… hành hạ nhiều lắm, có khi bệnh nhân hết bệnh nhưng gương mặt thì nhiều sẹo vô cùng. Chính Bác sị này cấy cho hàng trăm trẻ em và người lớn trong quận làng mà ông hành nghề Bác sĩ nông thôn. Tin này lan đến Lodon, phương pháp này hay hơn phương pháp của Bác sĩ riêng Lady Montagu. Thế là danh từ: “vaccination” thay thế danh từ: “inoculaion”. Danh từ vaccination nghĩa là gây bệnh từ loài vật cho người vì người sẽ được miễn nhiễm, còn danh từ inoculation là lây bệnh trực tiếp từ người sang người. Danh từ: “vaccination” lan tràn khắp Châu Âu., và Tổng tài Napoleon ra lệnh toàn thể quân sỉ Pháp bắt buộc phải chủng ngừa khi đi vào quân đội.
Năm 1805 bác sĩ tại biên giới Nga-Hoa, Khiatka, tất cả dân chúng tại tiểu bang này được chủng ngừa và tin tốt loan đến Trung Hoa. Lúc đó toàn thể dân chúng gần 4 triệu người được chủng đậu. Nhưng có một điều quan trọng lấy đâu… thêm vi trùng (đúng hơn là siêu vi trùng) chủng cho người? Vì bò rất ít khi bị bệnh này vì cơ thể nó… rất trâu bò… nghĩa là mạnh lắm, nhiều khi không phát ra được bệnh sau cùng là đành phải cấy bệnh người cho bò rồi lấy vẩy mũ bò mà làm thuốc cho người kế tiếp. Lúc đó họ chưa có phương pháp tạo vi trùng trong phòng thí nghiệm thành thử phải là… con ông cháu cha mới được làm bệnh này còn dân ngu khu đen… chết ráng chịu.
Tổng thống kế tiếp là Thomas Jefferson có mời tù trưởng Da đỏ quen thân đến chích thuốc cho bị bệnh đậu mùa, tù trưởng này tên là: “Chief Little Turtle” (Xếp Rùa Nhỏ).
Vì siêu vi trùng đậu mùa sống nhờ người truyên cho người, còn loài vật thì không bị chết. Muốn diệt bệnh đậu mùa thì đừng cho nó truyền từ người sang người. Muốn như vậy thì phải chủng ngừa. Nhờ phương pháp Pastuer biết cấy vi trùng loại bò trong phòng thí nghiệm và trộn thuốc làm cho siêu vi trùng yếu đi bằng thuốc hóa học hay bằng tia cực tím hay radiation… nên ngày nay chúng ta có thể chủng ngừa cho hàng trăm ngàn trẻ em đến hàng triệu mà không sợ thiếu thuốc chủng ngừa. Đến khi Liên hiệp Quốc, WHO dùng phương pháp này đến tận làng mạc xa xôi tại Bangladesh thì bệnh từ 20 ngàn người nay không còn người nào bị bệnh hết, tất cả được chủng từ khi còn nhỏ thơ.
Hiện nay trên thế giới có hai nơi còn giữ siêu vi trùng bệnh đậu mùa: 1.- tại Atlanta, Georgia,USA (Hoakỳ). Cơ quan này gọi là: CDC (Centers for Disease Control). 2.- tại Russian State Reasearch Center of Virology and Biotechnology ở Novosibirsk ở Siberia, Russia. Tại Atlanta, Georgia, cơ quan CDC chế ra một loại siêu vi trùng đậu mùa tinh nhuyễn thành bột phấn và Nga sô tại Siberia cũng vậy. Năm 1972, Soviet Union, United Sates, và Great Britain ký một hiệp ước Quốc tế với nhau là không được dùng siêu vi trùng bệnh đậu mùa này làm khí giới Vi trùng mà đánh giặc với nhau. Hàng triệu lọ thuốc chứa siêu vi trùng smallpox này cần phải hủy bỏ. Nhưng khi đế quốc Nga bị xụp đổ năm 1991, thì rất nhiều nhà bác học vi trùng Nga sô được mấy nước láng giềng mời đến làm việc cho những phòng thí nghiệm tối tân của họ. Trong đó có nước Iraq. Nước Iraq dặn riêng với các nhà bác học chiến tranh vi trùng là: “nhớ đừng quên mang theo những lọ vi trùng mà… các anh đã làm việc cho vụ đó.” Đồng thời tại Atlanta, Georgia phòng thí nghiệm CDC được lệnh hủy bỏ hàng ngàn chai lọ chứa mẫu vi trùng cực độc được thi hành, nhưng khi tổng kiểm soát lại bằng máy vi tính computers thì người ta thấy có trên 100 lọ tinh chất bột vi trùng bệnh Than và bệnh đậu mùa được một cơ quan thầu đem đi phá hủy… không có ghi lại trong giấy tờ của họ và số lọ náy tìm không cách nào ra được vì đã ttrên 8 năm nay rồi.
Ngày nay với sự khám phá của Y khoa đi đến DNA, khoa học gia rất ngạc nhiên vì siêu vi trùng: “smallpox virus” rất đa dạng trong DNA. Tại sao vậy? Ta đã biết DNA là: “Deoxyribonucleic Acid”. Siêu vi trùng này là một chuỗi (strand) của DNA bao bởi một loại protein như là được bảo vệ bởi protein này trong DNA vậy. Trong siêu vi trùng bệnh đậu mùa, smallpox nó có hàng trăm proteins khác nhau bao bọc DNA mà người ta biết được là 187 Genes. Còn siêu vi trùng bệnh SIDA hay AIDS chỉ có 10 genes mà thôi.
Tại Hoakỳ người ta không cón thấy ai bị bệnh đậu mùa vì cha chú đã chủng hết rồi. Nhưng nếu bệnh được tung ra trong chiến tranh vi trùng thì sẽ có hàng trăm ngàn người chưa được chủng ngừa bệnh này sẽ dính bệnh này và chết hay bệnh gây nặng và để lại vết sẹo ngàn năm trên gương mặt.
Bệnh đậu Mùa đến cơ thể bệnh nhân một cách âm thầm, không ai biết gì cả… cho đến khoảng 10 hôm sau, thì bệnh nhân thấy khó chịu, rồi nóng sốt lên vùn vụt, lên đến 104 độ F là thường. Lên đến cơn sốt này đa số bệnh nhân sẽ động kinh phải làm hạ sốt bệnh nhân bằng chườm nước đá trên đầu. Ngày xưa tại ViệtNam, người ta hay cạo gió cho mau ra Ban. Ban trổ ra thì sẽ bớt sốt và giảm bệnh luôn. Bệnh kèm với sốt cao độ là nhức đầu kinh khủng, nhức đến ói mửa, nôn ra toàn nước lỏng đầy mật đắng nghét cả miệng. Sau đó đau nhức lưng và bắp thịt đùi và vai nhức dữ dội… Lúc nầy Bệnh nhân tùy theo số mạng của mình: Nặng hay Nhẹ mà thôi. Bệnh Nhẹ thì có thể 10% bệnh nhân chết (thường là con nít). Còn bệnh nặng thì khoảng 30 – 40% bệnh nhân chết (con nít kể cả người lớn luôn). Sau đó là bước thứ ba bệnh đậu mùa (khoảng 6 ngày sau). Thình lình bệnh nhân thấy người phủ đầy mụn đỏ, ngứa rồi ngày sau thì nung mủ… Rồi bước thứ Tư thì hàng ngàn mụt nhọt này xẹp xuống và tạo vẫy. Bước kế tiếp là vẩy bóc ra để lại vết Sẹo. Sẹo sâu hay cạn là tùy… hồng phước bệnh nhân. Bác sĩ không có một phép lạ nào chận được chu kỳ tuần tự của bệnh đậu mùa khi bệnh nhân bi bệnh. Chỉ ngừa mà thôi, ngừa bằng chũng đậu từ lúc nhỏ thế thôi. Nếu không ngừa thì có ngày sẽ bị bệnh đậu mùa. Chết sống thì cũng tùy… hồng phúc bệnh nhân.
Như Vua Tự Đức của chúng ta vậy. Vua bị bệnh Đậu mùa từ thuở nhỏ, nên vua bị rổ chằng chịt và điều nguy hại cho vua Tự Đức là vua bị biến chứng. Vua không con nối dõi vì bị bệnh đậu Mùa gây nên sự tuyệt tự rồi.
Trở lại kinh nghiệm cá nhân. Chúng tôi ngày xưa, tại Saigon, lúc còn học Ykhoa năm thứ nhất thì gia đình có người Dì tên là Dì Năm.. Dì có đứa con gái tuổi 15, đang học tại trường dòng của MaSoeur tên là trường Saint Paul (đường Cường Để, Saigon). Cô gái này tên là Hương. Cô là em họ của chúng tôi. Cô Hương năm đó bị bệnh đậu mùa, nghỉ học trên 4 tuần lễ. Chúng tôi là vai anh họ nên có đến thăm. Nhà Dì trên đường Phạm ngũ Lão. Lên lầu thăm đứa em họ, thì Dì chỉ cho mình tôi vào thăm em mà thôi. Qua 2 lớp buồng. Điều lạ lùng là Dì đều dùng màn màu đỏ bao bọc hết tất cả cửa sổ, cửa lớn, cửa nhỏ… còn đèn thì Dì dùng đèn màu đỏ nho nhỏ (y như người Tàu họ thờ Ông Thần Tài với hai cây đèn điện màu đỏ vậy). Lúc đó em Hương hết nóng, vì ban đã trổ ra hết rồi… em đang uống thuốc tây của Bác sĩ gần đó đến cho. Tôi thấy thuốc cũng loại trụ sinh và kháng sinh cùng thuốc bổ mà thôi y như các bệnh viện dùng vậy. Người bệnh thì được ăn cháo đường.
Chúng tôi về nhà, tôi có nói điều này với cha mẹ chúng tôi trong buổi ăn cơm: “Má nè! Tại sao con thấy nhà Dì Năm trong phòng ngủ con nhỏ Huơng bao bọc toàn màn màu đỏ hết vậy? (người miền Nam khi gọi thân nhân vai thấp hơn là nhỏ này thằng nọ… không có ngụ ý khi dễ nhưng mà quen miệng như vậy rồi. Chính có lần tôi xuống Châu Đốc chơi thăm nhà bà chị họ, thì chị họ thường gọi tên là: “Thằng T… mầy muốn ăn canh chua bông điên điển hay không? Đó là lời quen miệng chớ không có ý khinh khi thằng này con nọ). Lúc đó Má tôi không trả lời được. Và tôi đến trường có hỏi Thầy dạy thì Thầy cũng… ớ luôn, không trả lời được.
Sau đó em Hương mạnh và đi học lại. Nhưng điều ngạc nhiên… Em Hương không bị một vết sẹo nào của Bệnh Đậu Mùa nữa! Mà bệnh Đậu Mùa ngày nay không chết nếu đem bệnh nhân tới Bác sĩ gấp… nhưng sẽ trổ Ban. Khi Ban Trổ là hết Bệnh và sẽ để lại vết Sẹo… mà người đời gọi là Bệnh Rổ Hoa. Bệnh Rổ có thể nhẹ hay nặng. Cho dù Nặng hay Nhẹ cũng đều để vết sẹo trên gương mặt. Bệnh nặng thì Rổ chằng chịt, sâu hoắm còn bệnh Nhẹ thì rổ lưa thưa, nhìn kỷ sẽ thấy. Còn em Hương thì không có một vết thẹo hay vết sẹo nào cả. Chúng tôi sau đó có hỏi lại lấn nữa đến Dì Năm: “Tại sao em Huong nó không bị vết sẹo nào hết vậy thưa Dì?”. Dì Năm nói: “Đây là Dì nghe lại từ Bà Nội của Dì lúc Dì còn nhỏ, và có người trong dòng họ Dì bị bệnh này tại Châu Đốc và được người lớn tuổi bày vẻ như vậy. Cho nên Dì nhớ lại và làm y như vậy! Nhờ con Hương nó có phước đức nên nó không bị rổ, nếu nó bị rổ thì khó lấy chồng lắm con ạ!”
Điều này có thật! Chúng tôi mong ghi lại cho các bạn độc giả của Đại Chúng để nhớ lại một chuyện mà Ông bà di truyền lại cho con cháu. Bệnh sẽ không để lại Sẹo nhờ màn đỏ và màn đỏ ngăn nhiều làn sóng ánh sáng trong ban ngày…
Hoành Sơn Y Sĩ
benhvathuoc.com